Cụ thể, phát biểu tại Hội thảo, ông Trần Đức Đông, Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia cho biết, khái niệm về hàng giả được quy định rõ tại Nghị định số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Hàng giả theo Nghị định này là những sản phẩm hàng hóa được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường; hoặc những sản phẩm hàng hóa không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.
Hiện, quy định về hàng giả được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Hình sự (từ Điều 192 đến 195), Luật Dược (Điều 2, khoản 33, 34) và đặc biệt là Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là các quy định hiện hành chủ yếu mới dừng ở việc liệt kê hành vi và dấu hiệu nhận biết, chưa có một khái niệm chung, thống nhất về hàng giả có giá trị pháp lý cao.
Toàn cảnh Hội thảo “Hàng giả và các giải pháp công nghệ chống hàng giả”, do Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia tổ chức. Ảnh: QHÔng Trần Đức Đông đặt vấn đề: Liệu các quy định về hàng giả trong hệ thống pháp luật hiện hành đã đáp ứng được thực tiễn công tác phòng chống vi phạm, tội phạm về hàng giả chưa? Thuận lợi và khó khăn trong thực tiễn công tác phát hiện, xử lý vi phạm về hàng giả...?
Chính vì vậy, cần thiết phải quy định rõ hàng giả tại các Luật chuyên ngành để đảm bảo tính pháp lý cao hơn? Quy định tại các Nghị định chuyên ngành để phù hợp hơn? Quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đảm bảo được tính sát hợp với từng nhóm mặt hàng, xong cũng dễ bị chồng chéo, phủ định lẫn nhau…?
Tại Hội thảo, ông Hoàng Ninh, Phó Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kỹ thuật số (Bộ Công Thương) cũng cho rằng: Việc xây dựng Luật Thương mại điện tử là một bước tiến pháp lý quan trọng, thể hiện quyết tâm trong việc làm trong sạch hóa thị trường. Các quy định về trách nhiệm của nền tảng và việc gắn kết trách nhiệm của cả hệ sinh thái logistics, thanh toán là chìa khóa để giải quyết vấn nạn hàng giả.
Tuy nhiên, cuộc chiến này chỉ thành công khi các quy định của luật được chi tiết hóa bằng các văn bản hướng dẫn cụ thể, khả thi, áp dụng công nghệ mạnh mẽ và có sự phối hợp đồng bộ, quyết liệt của tất cả các bên.
Còn theo ông Tạ Mạnh Hùng, đại diện Ban Chỉ đạo 389 Bộ Y tế cho biết, việc tăng chế tài xử lý vi phạm liên quan đến hàng giả là cần thiết. Cụ thể, tăng mức xử phạt bằng tiền, hình thức xử phạt bổ sung đối với hành vi sản xuất, kinh doanh thuốc giả; tăng mức xử phạt bằng tiền, quy định các biện pháp xử phạt đối với hành vi kinh doanh thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ.
Với chủ đề “Hàng giả và các giải pháp công nghệ chống hàng giả”, tại Hội thảo, đại diện các bộ, ngành, địa phương đã tập trung thảo luận vào 4 nhóm nội dung trọng tâm như nhận thức chung về hàng giả, chế tài xử lý hàng giả, quỹ phòng chống hàng giả và các giải pháp về công nghệ phòng, chống hàng giả…
Liên quan đến vấn nạn hàng giả ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, ông Nguyễn Đăng Sinh, Chủ tịch Hiệp hội Chống hàng giả và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam (VATAP) cho biết, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng… đang là một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội. Hầu hết các sản phẩm có uy tín, có thương hiệu được người tiêu dùng ưa chuộng, đều có nguy cơ bị làm giả, làm nhái. Hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ hiện diện từ các cửa hàng tạp hóa nhỏ đến những siêu thị ở những đô thị lớn.
“Hàng giả, hàng nhái đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại, linh hoạt về giá cả, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của lực lượng chức năng. Hiện nay, tình trạng sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc vẫn phổ biến và diễn biến phức tạp cả về quy mô, lĩnh vực lẫn phương thức sản xuất, tổ chức tiêu thụ, nhập khẩu từ bên ngoài…”, ông Nguyễn Đăng Sinh phân tích.