Công nghệ quyết định “cửa” vào Nhật Bản của nông sản Việt

Đó là thông tin được tiến sĩ Mai Văn Hào - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) chia sẻ tại hội thảo “Thúc đẩy kết nối công nghệ và thương mại nông sản Việt Nam - Nhật Bản lần thứ 5” ngày 5/12.

Theo ông Mai Văn Hào, dù có nền nông nghiệp hiện đại, Nhật Bản mới tự cung khoảng 45% nhu cầu thực phẩm, đồng nghĩa nước này phải nhập khẩu lượng lớn nông sản chất lượng cao mỗi năm. Đây là dư địa lớn cho Việt Nam, nhưng việc tiếp cận thị trường Nhật không thể đi theo lối cũ. Chúng ta buộc phải nâng cấp công nghệ, chuẩn hóa chất lượng và đáp ứng đúng hệ tiêu chuẩn cực kỳ khắt khe của họ. Tuy vậy, để tận dụng cơ hội, Việt Nam buộc phải tiếp tục đổi mới công nghệ, hoàn thiện quy trình quản lý chất lượng và tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe của thị trường Nhật.

z7295685319938-c90f745455624cc4de5437f73871e520-1764926157.jpg
Ông Phạm Văn Thọ, trình bày về công nghệ truy xuất nguồn gốc True Data tại hội thảo.

Theo tiến sĩ Đào Thế Anh - Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam (PHANO), muốn nông sản Việt đi sâu vào thị trường Nhật Bản, điều cốt lõi không chỉ nằm ở sản xuất mà phải bắt đầu từ chuyển đổi mô hình phát triển nông nghiệp. “Nhật Bản là thị trường coi trọng sự minh bạch, tính bền vững và khả năng kiểm soát rủi ro trong toàn chuỗi, nên những giá trị xanh - sinh thái - số hóa sẽ ngày càng trở thành điều kiện tiên quyết”. Từ kinh nghiệm triển khai nhiều dự án hợp tác nông nghiệp tại Việt Nam, ông cho biết Nhật Bản đánh giá rất cao các mô hình nông nghiệp sinh thái (agroecology), nơi sản xuất được tổ chức theo hướng giảm phụ thuộc hóa chất, bảo vệ đất - nước - đa dạng sinh học và minh bạch hóa toàn bộ quy trình. Do đó, chuyển đổi số là chìa khóa không thể thiếu và những nền tảng như WeatherPlus (giám sát khí tượng - dự báo thời tiết thông minh), MobiAgri (AI nhận diện sâu bệnh)… chính là ngôn ngữ chung khi làm việc với các nhà nhập khẩu Nhật Bản. Bên cạnh đó, truy xuất nguồn gốc sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng.

Ông Phạm Văn Thọ - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Công nghệ Chống giả Việt Nam - cảnh báo, dù nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng 5-7% mỗi năm, có 11 nhóm hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang Nhật tăng 25,5% nhưng rủi ro lớn nhất lại nằm ở truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm.

z7295700562236-b3847cad7e314846068edc03082ad208-1764926157.jpg
 

“Thời gian qua, một số lô hàng của Việt Nam đã bị EU cảnh báo vi phạm tiêu chuẩn, cho thấy việc thiếu công cụ xác thực và giám sát chuỗi cung ứng có thể làm suy giảm uy tín ngay cả khi sản phẩm đạt chất lượng”- ông nói và cho biết nếu không xây dựng được hệ thống minh bạch thì rất khó cạnh tranh, thậm chí ngay trên sân nhà. Theo ông, yêu cầu của thị trường quốc tế, trong đó có Nhật Bản đang chuyển mạnh sang tính truy xuất, minh bạch và khả năng kiểm chứng. Điều này khiến việc vận hành hệ thống truy xuất nguồn gốc và dữ liệu chuỗi cung ứng trở thành yêu cầu bắt buộc. Từ đó, ông cho rằng, đã đến lúc ngành nông nghiệp phải có một hệ thống truy xuất nguồn gốc đủ mạnh để bảo chứng chất lượng cho từng lô hàng. “Công nghệ nhận dạng bằng chip RFID (chip siêu nhỏ dùng sóng vô tuyến để nhận dạng và theo dõi sản phẩm) hiện được nhiều nước sử dụng trong quản lý chuỗi cung ứng. Công nghệ này mang lại lợi thế là có thể theo dõi sản phẩm ở mọi mắt xích, từ sản xuất đến phân phối.

Điều này giúp doanh nghiệp chủ động kiểm soát rủi ro, còn cơ quan quản lý và người mua dễ dàng xác minh nguồn gốc khi cần”- ông nhấn mạnh. Hội thảo “Thúc đẩy kết nối công nghệ và thương mại nông sản Việt Nam - Nhật Bản” được tổ chức định kỳ 2 lần/năm. Hội thảo đồng thời nhấn mạnh việc kết nối các doanh nghiệp Việt Nam - Nhật Bản, trao đổi những tiêu chí, yêu cầu để đưa nông sản Việt Nam vào thị trường Nhật và thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường giàu tiềm năng này. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, thử nghiệm và mở rộng thị trường xuất khẩu sang Nhật.